1. Khúc sông làng Bích
Buổi chiều nghỉ chân ở quán nước dưới gốc cây gạo, sư Thiện Pháp uống vội ngụm nước chè rồi trầm ngâm nghe tiếng xẩm của cụ Bảy. Những người lang thang, dáng dấp lữ khách thường giỏi một ngón nghề gì đấy. Cụ Bảy cũng thế, không ai biết cụ đến làng này từ bao giờ, chỉ biết cụ đã ngồi hát xẩm và gắng với con đò của mình lâu lắm rồi, đặc biệt ngón đàn và cái giọng trầm đục nỉ non của cụ thì ai nghe cũng chờn. Tiếng hát xẩm của cụ Bảy khiến sư Thiện Pháp bất động hồi lâu, cảm giác những dây thần kinh như thắt lại, từng lông tơ dựng đứng cả lên.
Cụ Bảy ngừng lại ngước đôi mắt về phía sư bật cười:
- Sư thầy đi hóa duyên về đó hử?
- Bẩm cụ thưa vâng, tiếng đàn cụ hay quá!
- Sư thầy không biết, trong đàn cũng có hồn phách, mình vuốt ve cưng nựng nó thì nó mới chịu cho mình cái tiếng nó trong thế. Cây đàn này gắng với tôi lâu lắm rồi, nhiều khi nó là con, là bạn, là tri kỉ từ hồi nào tôi chẳng biết nữa.
Sư Thiện Pháp gật gù, mời cụ chén nước chè rồi cả hai ngồi đàm đạo.
Bà Bổi ve vẩy cái quạt phá tan cuộc trò chuyện của hai người:
- Độ rày có ai mời sư thầy đi tụng kinh, cúng quẩy gì không?
Sư Thiện Pháp đang dở chuyện, ngẩn người đáp lại:
- Không bà ạ, trong chùa nhà ai có đám hiếu hay có lễ lược gì đấy thì mời nhà chùa đi thôi. Những việc cúng quẩy, cúng tế chúng tôi không nhận.
Nhổ phịt ngụm trầu đỏ tươi như máu, bà Bổi đon đả:
- Thế hử, tôi là tôi hỏi thế thôi, bởi độ rày tôi nghe khúc sông dưới xóm Bích nhiều người đuối nước lắm, từ giêng đến giờ mới có ba tháng, vậy mà đã “đi” những bốn người rồi. Khúc sông ấy lâu nay vẫn tắm giặt bình thường, từ ngày đó đến giờ vắng tanh, trông càng u ám.
Đột nhiên bà Bổi quay sang cụ Bảy hỏi khẽ:
- Cụ hay chèo qua khúc sông ấy, thế có biết căn nguyên ấy làm sao không?
Cụ Bảy vẫn hướng đôi mắt trầm đục của mình ra xa, im lặng một hồi. Thế rồi trong cổ họng cụ từng chữ bật ra như có ai đang bóp nghẹn :
- GIEO NHÂN GÌ THÌ GẶT QUẢ ĐẤY
Cái quạt trên tay bà Bổi dừng hẳn, mấy người khách ngồi quanh cũng xúm hết cả lại, một người cất tiếng:
- Cụ nói thế là ý gì hả cụ?
- Tôi nói xàm đấy, mọi người đừng để ý, cái gì cũng có cái lý của nó, tôi đoán chắc có gì khúc mắc trong chuyện này nên nói bừa vậy thôi. Mọi người cứ nghỉ, tôi đi đây.
Xếp lại hộp đàn, cụ Bảy bỏ đi dưới ánh mắt ngơ ngác của mọi người. Đợi cụ đi khuất, bà Bổi chép miệng:
- Có căn nguyên gì thì cũng mong đừng có ai bỏ xác dưới đáy sông đó nữa. Tội nghiệp, lạnh lẽo lắm, cô đơn lắm.
Sư Thiện Pháp nãy giờ trầm ngâm. Dáng điệu và cả câu nói của cụ Bảy không phải bật ra một cách tự nhiên như vậy. Vốn dĩ xưa nay cụ kiệm lời và kĩ tính lắm, đâu dễ nói bừa ra một câu như vậy.
Trả tiền nước cho bà Bổi xong, sư giục hai chú tiểu theo phụ mình sửa soạn tay nải về chùa.
Thoáng chốc, bóng của ba sư đồ đã khuất sau rặng tre. Mặt trời sắp lặn quét một màu đỏ ối kéo dài đến tận khúc sông cuối làng Bích. Nhìn về hướng ấy bây giờ nom rợn hết cả người, tiếng mấy con vạc đi ăn đêm vọng lại càng khiến ai nhìn cũng chả dám nhìn lâu.
2. Tiếng khóc ở dốc Miếu Đôi
Lão Trì đi thả vó ở mé sông từ chập tối, đó là thời điểm ưng ý nhất của lão, đố ai trông thấy lão đi thả vó ban ngày. Ra cái chòi ngoài bãi sông, lão Trì lầm lụi cất vó rồi thắp điện bằng cái mô tơ đem theo để nhử mồi. Rít điều thuốc lào cho ấm bụng, lão ngồi ngẩn ngơ ngó ra mặt nước loang loáng ở đằng xa.
Cái bụi tre ở rìa sông chẻ ra làm hai như chỏm tóc đứa con nít lên ba nom thật dị thường. Hôm nay trúng đêm rằm, trăng sáng vằng vặc chiếu xuống mặt sông thật đẹp. Lão Trì phê thuốc ngồi nhẩm nha mấy câu ả đào:
“Hiên thì thấp thoáng trăng tròn. . gió vàng hiu hắt như gương mặt sầu…niềm tâm sự thấp cao mọi lẽ. . tình cảnh này biết kể cùng ai”
Giọng lão Trì rền rĩ nghe câu được câu mất. Lão thẫn thờ nhìn trời, nhìn sông thấy cảnh như trong thơ Lý Bạch. Lão hồi nhỏ cũng đi học, rồi cái đói cái nghèo khiến lão bỏ ngang dẫu cho lão học cũng không đến nỗi tệ, lão cũng biết mấy bài bài thơ Đường, rồi thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ…. để giắt lưng đọc chơi. Lão văng tục:
- Mẹ kiếp, cái chốn tiên cảnh thế này mà tiên sư đứa nào kháo chuyện bậy bạ.
Từ độ chưa có câu chuyện mà mọi người bàn tán kia, khúc sông này buổi tối nhộn nhịp lắm. Ngoài lão Trì đi thả vó ra còn mấy đứa nhỏ đi soi ếch với chiếc đèn pin nhỏ xíu, chúng hay lên chòi lão chơi, ngồi nghe lão kể chuyện bên Tây bên Tàu, vậy mà nay vắng tiệt , đố có đứa nào bén mảng đến khúc sông này. Lão Trì đâm ra buồn thúi ruột, chả biết chuyện trò với ai. Ngẩm nga thêm tí nữa, lão ngủ sớm để khuya dậy kéo vó.
Cái tiết trời tháng năm nóng hừng hực thế mà giờ lạnh buốt, từng cơn gió cứ thốc vào mái chòi của lão Trì từng đợt từng đợt. Lão kéo chiếc chăn che kín chân rồi mà vẫn lạnh. Chửi đổng vài câu, lão lọ mọ dậy châm điếu thuốc ngồi ngáp ngắn ngáp dài. Trong bóng đêm mù mịt kia, điếu thuốc lão Trì đỏ rực, nhập nhòe như mấy con ma đuốc. Lão chả sợ bố con nhà ma nào, từ thuở cha sanh mẹ đẻ đến giờ, đi đêm đi hôm lão chả biết con ma nó hình thù ra làm sao, có đáng sợ như dân gian đồn đại không, mà nếu có chắc lão cũng hù cho nó chạy té khói. Nghĩ vậy, lão cười.
Bất chợt, lão nghe vẳng lại tiếng khóc từ phía dốc Miếu Đôi, đầu tiên là nghe loáng thoáng sau đó rõ dần rồi rít lên từng chặp nghe ai oán não nề. Hẳn như người khóc có chuyện gì buồn đến thảm thiết thì tiếng khóc mới thê lương như vậy. Lão Trì dỏng tai nghe, có tiếng phụ nữ rồi cả tiếng con nít nữa. Quái lạ, khuya vầy rồi ai còn dắt con đi chơi nữa chứ. Tiếng khóc vọng lại mỗi lúc một rõ, nghe rờn rợn.
Cho chiếc ghe tấp vào bờ, lão Trì tiến lại gần cái miếu dốc Đôi. Cái miếu này bỏ hoang đã lâu, chỉ thắp mỗi cái bóng đèn hạt lựu đỏ choét nhìn là muốn bỏ chạy. Từ khi trời nhập nhoạng đã chẳng thấy ai dám bén mảng ra chốn này.
Lão Trì mỗi lúc mỗi gần dốc Miếu hơn, bây giờ chỉ nghe tiếng khóc của phụ nữ, còn đứa con nít lại nghe cười, tiếng cười của con nít mà lão Trì nghe thấy tiếng cười này nó quái thai như thế nào ấy:
Huuuuuu…ư…. ư…. . ư………Há há…. . Há…….
Lão Trì nhìn vào miếu chả thấy có ai, theo tiếng cười lão ra bờ tường gần gốc mít. Lão nom thấy có ai ngồi đó, bên cạnh là đứa con nít chắc mới chỉ lên hai, trần truồng đầu không một cọng tóc.
Giữa đêm khuya khoắt thế này mà lại dẫn con đi chơi rồi ngồi khóc thế này, chắc lạc đường, tội nghiệp-lão Trì chép miệng.
- Chị gì ơi, nhà ở đâu thế, bị lạc hả, trời lạnh thế này sao không mặc áo quần cho cháu?vừa hỏi lão Trì vừa tiến lại gần.
Đứa con nít dứt cười hẳn, quay ngoắt lại nhìn Lão Trì, vừa chạy đến lão vừa kêu lớn:Áo, áo cho tao.
Tức thì người phụ nữ kia cũng ngẩng đầu lên, nửa mái tóc che khuất khuôn mặt chỉ lộ cặp mắt sáng như dao cạo, nói với theo đứa bé:
- Được thì xin ông ta theo mẹ con mình luôn con ơi, há há há há……. .
Tiếng cười của người phụ nữ khiến lão Trì thất kinh, cái lời thề dọa cho ma chạy té khói cuả lão biến đâu mất, lão chỉ kịp rú lên rồi chạy trối chết về phía nhà ông Toản.
Ông Toản đang ngủ mơ màng nghe có ai la hét rồi đập cửa ầm ầm, tưởng trộm liền vùng dậy vơ vội cây đòn gánh rồi mở cửa đánh mạnh vào đầu cái bóng đen đang đập cửa kia. lão Trì chỉ kịp kêu Ối một tiếng rõ to rồi ngất xỉu. Ông Toản định thần một hồi mới thắp đèn soi rõ mặt cái thằng bạo gan kia là ai, té ra là lão Trì.
Lão Trì xỉu một chặp thì tỉnh dậy, cũng may ông Toản tuổi cao thành thử sức đánh không mạnh lắm, nhưng cũng kịp để nguyên một quả cam lên đầu lão Trì. Nghe lão Trì kể hết chuyện, cả hai cùng thằng con trai lớn ông Toản đốt đèn ra cái dốc Miếu. Lão Trì vừa đi vừa run, tay bám chặt ông Trọng, trong đầu còn nhớ đến hai cái gương mặt hãi hùng kia.
Trong miếu vắng tanh, chỗ gốc mít chỉ còn một ít tiền vàng mã và áo binh đã nhàu nát, chẳng thấy mẹ con kia đâu cả. Nhưng như thế cũng đủ khiến cả ba chợn người.
Chờ một hồi không thấy động tĩnh gì, ai về nhà nấy. Lão Trì chèo mạnh chiếc ghe ra phía chòi, cố tránh càng xa cái miếu càng tốt. Nhấc thử cái vó, lão thấy nằng nặng. Cái sợ hãi nó biến đâu mất, lão chắc mẩm phen này trúng đậm mẻ cá lớn. Hì hục một hồi lão cũng cất cái rớ lên được, rọi đèn vào giữa lưới, một lần nữa da mặt lão y hệt như lúc hồi nãy gặp hai mẹ con ở dốc Miếu đôi. Trong lưới có người, mùi hôi thối bốc ra khiến lão Trì ói ngay tại chỗ.
3. Bắt ma
Cái tin lão Trì ngay một đêm vừa gặp ma, vừa rớ được người khiến cái làng Bích vốn yên bình nay nháo nhào lên hết cả, không ồn ào sao được khi nhiều chuyện lớn như vậy xảy ra. Công an đến khám nghiệm bảo cha Thắng trưởng thôn nhậu say về rồi té ngã chết đuối dưới sông, tất cả đơn thuần chỉ là một tai nạn. Nhưng dân làng Bích ai mà tin, mười người hết mười một người cho rằng cha Thắng chết cho ma dìm, nói như vậy để thấy cái nỗi sợ hãi đã bao trùm lên cả làng. Cha Thắng trưởng thôn chết đồng nghĩa với việc xuất hiện cái xác thứ năm trong vòng bốn tháng. Khúc sông đó đã vắng vẻ nay chả thấy một bóng người, cái đèn neon trong cái chòi của lão Trì cũng tắt ngúm, nghe đâu lão bỏ qua làng khác rồi.
Tụi con nít trong xóm được thể tối ngày hát mấy bài vè, vừa hát mắt vừa lấm lét: Nghe vẻ nghe ve, nghe vè ma nước, một ông chết trước, kéo cả mấy ông, người thì tăng xông, kẻ thì ăn nhậu, mặt ai cũng xấu, dúm dó nhăn nheo, chắc hẳn ma theo, mẹ con xin áo…. .
Quán nước bà Bổi mấy ngày này khách đến nhộn nhịp cả lên, ai cũng đến ngóng xem câu chuyện thực hư thế nào. Bà Bổi tay rót nước miệng cứ đon đả, ra điều bí hiểm:
- Ghê lắm các bác ạ, nó kéo năm mạng rồi, có lão cất vó làng em còn bị nó dọa cho nát vía, bỏ làng đi mất đấy.
Đám đông càng nghe càng xôn xao, thần sắc ai cũng toát lên vẻ sợ hãi. Trong đám người ngồi uống nước bất chợt có tiếng the thé vang lên:
- Hai vong này cũng dễ bắt.
Mọi ánh mắt đổ dồn về phía người vừa nói, là lão Ánh thầy cúng. Bà Bổi nhanh nhảu:
- Này, đừng có khoác, có giỏi ông đi bắt hai cái vong ấy về đây, cả làng này góp tiền thưởng ông.
Vuốt chỏm râu không lấy gì làm đẹp của mình, lão Ánh cười gằng:
- Cả làng cứ chung tiền để đó, tối nay ra dốc Miếu coi tôi bắt hai cái vong đó chơi. Nói đọan, lão đứng dậy bỏ đi thẳng.
Cả đám đông lại xì xào thêm, ai cũng bán tín bán nghi. Chỉ có một người tách khỏi đám đông lầm lũi tiến ra chiếc ghe, khua mái chèo về phiá khúc sông làng Bích, là cụ Bảy. Từ giữa sông từng câu hát cụ xa dần nghe ai oán, não nề:
Kìa mây đi mất, chim về núi sầu, thuyền đưa đủng đỉnh, chàng đâu chàng đâu…. .
Vừa chập tối nhà ai cũng đóng cửa, tiếng là đóng cửa nhưng ai cũng ngóng về phía dốc miếu Đôi coi lão Ánh bắt ma ra làm sao. Mấy đứa con nít bạo gan hơn, vừa chạy theo lão Ánh vừa hát vè. Lão Ánh tối nay mặc một đồ vàng chóe hệt như Lâm Chánh Anh trong phim cương thi, chỉ khác là một bên phim ảnh, một bên đi bắt ma thật.
Lão Ánh bắt đầu bày đồ lễ ra giữa miếu, mấy ngọn nến vàng uột thắp sáng trưng cả miếu hòa lẫn cái màu đỏ ối của đèn khiến không gian thêm kì bí. Lão đặt giữa bàn một cái thau có thứ nước sền sệt, bốc lên một mùi tanh lợm họng, chắc có lẽ là máu chó mực.
Viết vẽ máy hình rồng rắn lên mấy tấm bùa, lão bắt đầu làm phép. Một tay ...