Phi ngựa gần một ngày trời, trong lúc dừng lại để nghỉ ngơi, Tiểu Hoắc thấy tôi cúi đầu một mực không nói gì, bèn ngồi xuống bên cạnh tôi thấp giọng cười nói: “Ta thấy cô nương rất cảnh giác, sao lúc cưỡi ngựa lại tin tưởng ta thế? Không sợ ta đem cô nương đi bán à?”
Mặt tôi đột nhiên lại nóng bừng lên, tôi trừng mắt với hắn một cái, đứng dậy bỏ đi, tìm một chỗ khác ngồi. Nói ra cũng thấy lạ, mặc dù biết rõ thân phận của hắn có vấn đề, nhưng tôi lại vẫn cảm thấy hắn sẽ không làm hại tôi, luôn cảm thấy với sự cao ngạo ấy, con người này chắc chắn sẽ coi thường dùng những thủ đoạn đê tiện.
Hắn mang đồ ăn lại ngồi xuống bên cạnh tôi, lặng lẽ đưa tôi vài miếng bánh được chia phần. Tôi liếc hắn, lặng lẽ nhận lấy, không biết lúc nào, mấy phần cảnh giác trong mắt hắn đều đã biến mất, lúc này chỉ còn lại nét cười.
Có lẽ do nhớ nhà, người trong đoàn buôn bắt đầu kể chuyện thành Trường An, miêu tả tỉ mỉ sự phồn hoa thịnh vượng của thành Trường An, đường phố nơi đó rộng rãi, sạch sẽ biết bao, phòng ốc nơi đó được xây dựng khéo léo tuyệt vời nhường nào, chợ phiên nơi đó náo nhiệt và thú vị ra sao, nơi đó còn có những tài tử tài hoa nhất, ca kỹ xinh đẹp mê hồn nhất, tướng quân anh dũng nhất, những mỹ nữ cao quý nhất, loại rượu thơm nhất, đồ ăn ngon nhất, những thứ tốt đẹp nhất trên đời đều có thể tìm thấy ở đó, nơi đó gần như có mọi thứ mà người ta muốn.
Tôi ngơ ngẩn lắng nghe, tâm trạng phức tạp lạ thường, mọi thứ ở đó với tôi mà nói, vừa quen thuộc vừa lạ lẫm. Nếu mọi chuyện diễn ra như cha mong đợi, có lẽ bây giờ tôi đã cùng cha ở thành Trường An, chứ không phải đơn độc lang thang giữa sa mạc Qua Bích này.
Lúc đông người, Tiểu Hoắc rất ít nói, chỉ trầm mặc nghe những người khác thao thao bất tuyệt, cuối cùng hai người ở trên lưng ngựa, hắn mới nói riêng với tôi: “Những chuyện bọn họ kể chỉ là vẻ bề ngoài tươi sáng đẹp đẽ của Trường An thôi, không phải người nào cũng được hưởng thụ mọi thứ họ nói đến đâu.”
Tôi “ừ” một tiếng, ra ý đã hiểu.
Hai ngày sau, chúng tôi vẫy tay tạm biệt bên suối Nguyệt Nha. Vì đã có chủ ý mới, nên khi họ cảm ơn tôi lần nữa, tôi thẳng thắn nói nếu họ có nhiều lộ phí, thì cứ cho tôi một ít tiền coi như quà cảm ơn tôi đã dẫn đường.
Tiểu Hoắc hơi ngẩn ra, rồi nhướn mày bật cười, đưa tôi một túi tiền, do dự muốn nói gì đó, cuối cùng lại thôi, khuyên nhủ bằng giọng chân thành: “Đối với cô nương thì Trường An không bằng Tây Vực đâu, cô nương nên cẩn thận mọi chuyện.” Tôi gật gật đầu, nhận món tiền mới kiếm được rời đi.
Đi một quãng xa, cuối cùng vẫn không kìm được, tôi ngoảnh đầu nhìn lại. Vốn tưởng rằng chỉ có thể nhìn thấy bóng lưng đã xa dần, không ngờ hắn vẫn chưa bỏ đi, cứ ngồi ngây trên lưng ngựa, tiễn tôi bằng ánh mắt từ đằng xa. Bất chợt, ánh mắt hai người chạm nhau, gương mặt hắn thoáng hiện lên nét mừng rỡ pha lẫn kinh ngạc, trái tim tôi run lên, vội vàng quay đầu, cuống quýt chạy về phía trước.
* * *
Sau khi chia tay đoàn buôn của Tiểu Hoắc, tôi cùng đàn sói đi từ Qua Bích đến thảo nguyên, từ thảo nguyên đến sa mạc, đêm xuống lại nhấc túi tiền ra ngây người ngắm.
Tôi lưu luyến Lang huynh và đàn sói, cũng không nỡ rời xa sa mạc cát vàng, cỏ xanh và rừng hồ dương. Nhưng chẳng lẽ tôi sẽ sống cùng bầy sói ở đây suốt đời sao? Đúng như lời cha nói, tôi chung quy vẫn là người, tôi đã không thể hoàn toàn làm sói nữa rồi.
Sau khi nghĩ kỹ, tôi quyết định ra đi. Cuộc sống sói của Lang huynh đang bốn bề sóng dậy, phía trước còn có vô số thử thách, có lẽ có một vương quốc lớn nhất trong lịch sự loài sói ở Tây Vực đang chờ đợi nó. Nhưng đời người của tôi vừa mới bắt đầu, tính mạng này của tôi không dễ gì giữ được, cho dù phía trước là chua hay ngọt, đắng hay cay, tôi cũng sẽ đi nếm thử xem sao. Đúng như những người dân du mục kia vẫn hát: “Bảo đao không mài không sắc, cổ họng không hát không trong.” Đời người không có trải nghiệm thì u ám biết bao? Giống như bầu trời đêm mất đi ánh sao. Tôi muốn đến thành Trường An xem sao, xem Đại Hán trong lời kể của cha, có lẽ tôi có thể làm một cô gái người Hán xinh đẹp như lòng cha mong muốn. Quyển 1: Chương 3: Gặp lại
Ở thành Đôn Hoàng, sau khi trả đủ tiền, tôi được một đoàn buôn đồng ý dẫn theo cùng về Trường An.
Tôi mang theo toàn bộ gia tài chen chúc với bốn người khác trên xe ngựa. Gọi là toàn bộ gia tài, chẳng qua chỉ có một bộ váy Lâu Lan là đáng giá.
Cha từng kể cho tôi rất nhiều về cảnh vật Trường An, tôi cũng từng vô số lần tưởng tượng về Trường An, nhưng khi tận mặt nhìn thấy nó, tôi vẫn bị chinh phục trước vẻ hùng vĩ trang nghiêm ấy. Dùng mắt áng chừng con đường đang đi, đại khái rộng khoảng mười lăm trượng, mặt đường có hào nước chia thành ba làn, làn đường ở giữa rộng sáu đến bảy trượng, hai bên rộng khoảng bốn trượng. Lúc mới vào thành, hán tử đánh xe nói với tôi đầy vẻ tự hào, rằng làn ở giữa là ngự đạo dành cho thiên tử Đại Hán, hai bên thì để quan lại và dân thường đi lại.
Trải hết tầm mắt là những phủ đệ lộng lẫy, san sát nối tiếp nhau, mái hiên tưởng chừng như nối liền đến tận chân trời, hai bên con đường rộng rãi trồng các loại cây như hòe, du, tùng, bách, rậm rạp tươi tốt, cành lá sum suê, tăng thêm nét đẹp dịu dàng cho tòa hoàng thành.
Tôi ôm bọc đồ của mình, mải miết đi dọc con đường, chìm đắm trong cảm giác hưng phấn của người lần đầu đến Trường An. Mỗi góc nhà, mỗi cây cầu đều khiến tôi cảm thán không thôi, tôi nghĩ mình bắt đầu hiểu được tình cảm của cha rồi, một người từ bé đã nhìn quen sự phồn hoa đẹp đẽ này chỉ sợ khó lòng yêu thích nổi lều trại đơn sơ và vùng đất nhìn trái nhìn phải không trâu thì dê kia.
Không biết đi mất bao lâu, lúc trời sâm sẩm tối, tôi mới ý thức được mình cần phải tìm nơi nghỉ ngơi. Mặc dù đã chọn lữ quán rẻ nhất, nhưng tiền trong tay tôi cũng chỉ đủ ở mười mấy ngày. Tôi ngồi dưới ánh đèn cẩn thận đếm lại số tiền, bất giác nhớ nhung ngày tháng không phải tiêu tiền ở Tây Vực, sau này tôi sẽ sống kiểu gì đây?
Đang ngồi đờ đẫn dưới ánh đèn, bỗng nhớ ra dùng đèn lại phải trả thêm tiền dầu nữa, tôi vội vã dọn dẹp đồ đạc, tắt đèn đi ngủ. Trong bóng tối, tôi thừ người lo lắng, rồi lại phá lên cười. Thành Trường An lớn thế này, có thể nuôi sống bao nhiêu người, chẳng lẽ tôi không bằng những người khác? Tôi có tay có chân, lẽ nào còn sợ chết đối? Thật là lo sợ hoang đường!
Thế nhưng, lúc đi loanh quanh khắp thành Trường An, tôi bắt đầu ngờ vực, tôi thật sự nuôi sống được bản thân ư? Tỳ nữ, ca kỹ, mấy thứ này đều phải bán thân, tôi chắc chắn sẽ không bán mình, để cho kẻ khác kiểm soát cuộc sống của mình. Thêu thùa may vá tôi đều không biết. Những thứ con gái cần biết thì tôi lại không biết, thêm nữa phiền phức nhất là tôi không có người bảo lãnh, có một quán nọ nghe nói tôi biết chữ biến tính tiền, tiền công chỉ bằng một phần ba của đàn ông, bà chủ khôn ngoan ấy đã hơi xiêu lòng, nhưng khi bà ấy hỏi tôi “Có ai ở thành Trường An có thể bảo lãnh cho cô không,” thấy tôi lắc đầu, bà ta cũng đành lắc đầu tiếc nuối. Họ không thể thuê một người không rõ lại lịch.
Tôi thử đi tìm bọn Tiểu Hoắc, nghĩ rằng ít nhất bọn họ cũng có thể bảo lãnh cho tôi, nhưng đi hỏi hết nhà buôn này đến nhà buôn khác, tất cả đều lắc đầu, nói chưa từng thấy thương nhân buôn bán hương liệu như thế. Tôi bất lực và thất vọng, thầm oán trách, quả nhiên Tiểu Hoắc đã lừa tôi.
Sắp đến Tết Trùng Cửu, các cửa hàng sốt ruột đã đặt cây thù du trước cửa[1], trên các sạp bán hoa cũng trải thêm thù du, các tiểu điếm chất đầy những vò rượu hoa cúc ra bên ngoài hòng thu hút sự chú ý của người qua lại, người người đều đắm chìm trong niềm hân hoan của ngày lễ, còn tôi thì đã không một đồng dính túi. Từ hôm qua đến giờ, tôi chưa ăn tí gì, tối nay cũng không biết sẽ trú thân ở đâu nữa.
[1] Người xưa coi cây thù du là vật thờ cúng, trang sức, trừ tà. Trong sách Tây Kinh tạp ký của Cát Hồng thời Tấn có ghi, sủng phi của Hán Cao Tổ Lưu Bang là Thích phu nhân, mỗi năm đến ngày mùng chín tháng Chín, đầu cài cành thù du, uống rượu hoa cúc, ăn bánh ngọt, ra ngoài hoan yến.
Không khí phảng phất mùi hương thù du nồng nàn, hoa cúc dìu dịu, và niềm hân hoan trên mặt mọi người tất thảy không liên quan gì đến tôi, giữa phố xá phồn hoa người qua kẻ lại ấy, tôi chỉ có một thân một mình.
Tôi ôm bọc đồ đi ra ngoại thành. Phía Tây có một cánh rừng bạch dương, tối nay tôi định ở đấy, ít nhất có thể đốt lửa sưởi ấm, nếu may mắn sẽ bắt được một con thỏ hay con gì đó. Ngủ ngoài đồng hoang đối với tôi là chuyện bình thường như cơm bữa, nhưng đói bụng thật sự chẳng dễ chịu chút nào.
Lúc tâm tình ủ rũ, tôi từng nghĩ phải chăng mình đã sai lầm, cũng từng cân nhắc đem cầm bộ váy Lâu Lan lấy tiền quay về Tây Vực. Nghĩ tới nghĩ lui lại thấy không cam lòng, chắc cha không ngờ được cô con gái người Hán được mình nuôi dạy cẩn thận lại không sống nổi trong thành Trường Án của Hán triều.
Đến rừng bạch dương, tôi phát hiện có không ít người suy nghĩ giống mình, rất nhiều ăn mày đều chọn nơi đây nghỉ ngơi, bọn họ túm năm tụm ba quây quần quanh đống lửa ăn uống nói chuyện.
Tôi lặng lẽ đi xuyên qua từng đống lửa, mùi đồ ăn làm cho bụng tôi bắt đầu đau. Tôi nhắm trúng một cái cây to, đang chuẩn bị tối nay nằm ngủ một giấc ở đó, thì một gã ăn mày ngồi bên đống lửa đã hét lên rồi nhảy ra, ngoác miệng mắng mỏ: “Con nha đầu chết tiệt, không hiểu quy củ à? Đấy là địa bàn của gia gia ngươi đây.”
Tôi quay người trừng mắt tức giận nhìn kẻ đó, sao hắn không dùng nước tiểu đánh dấu phạm vi thế lực của mình như loài sói đi, mà cho dù tôi có vô tình mạo phạm, cũng không nên nói ác như thế chứ. Nhưng nghĩ kỹ lại thấy hà tất so đo với một kẻ hèn kém thế này, tôi chỉ cúi đầu đi tìm chỗ khác.
Hán tử bên cạnh chằm chằm nhìn tôi với ánh mắt xấu xa, đoạn liếm môi dưới nói: “Tiểu nương tử, bên đó cũng có người chiếm rồi, nhưng nếu nàng chịu hát cho lão gia nghe một bài, biết đâu lão gia vui vẻ lại chia chỗ nằm cho, cho nàng ngủ cùng một đêm.” Cả đám ăn mày phá lên cười ầm ĩ.
Tôi quay người nhìn bọn họ, chực ngồi xổm xuống đất rút thanh chủy thủ giấu trong giày ra, thì một kẻ ăn mày còn ít tuổi, tay bưng vò rượu, nghênh ngang đi về phía ba tên vô lại kia, hờ hững nói: “Này đầu hói, tiểu gia
hôm nay may mắn, không ngờ lại xin được một vò rượu hoa cúc thượng hạng ở Nhất phẩm cư này.”
Bọn ăn mày nghe thấy thế đều rời mắt khỏi tôi, nhìn chằm chằm vào vò rượu trên tay gã kia. Gã mắng tôi lúc đầu cười ha hả: “Tiểu tử nhà ngươi còn nhỏ mà lanh lợi láu cá ghê, đám ăn mày ở đây chẳng ai bằng ngươi cả.”
Gã ăn mày nhỏ khoan thai ngồi xuống, đưa vò rượu trên tay cho người kia: “Các ngươi cùng uống một ít đi, đừng khách khí với tiểu gia, mấy anh em chúng ta hôm nay cùng vui, học theo các đại lão gia ăn Tết nào.” Ba gã ăn mày lập tức tươi tỉnh, mặt mũi nở nang cả ra, hò hét ầm ĩ đánh toan phạt rượu, đã hoàn toàn quên mất sự tồn tại của tôi.
Một lão ăn mày đầu tóc bạc trắng đi đến bên cạnh tôi nói: “Khuê nữ à, đời người ta không có cái hố nào là không vượt qua nổi, cũng không có nỗi bực nào không chịu nổi. Bọn họ nói chuyện đều bừa bãi vô tâm, ch...